Sách Tiếng Việt lớp 1 của Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam: Sử dụng ngữ liệu cẩu thả, tùy tiện?

Thiên Bình
Thiên Bình
Bình luận: 0Lượt xem: 567

Thiên Bình

Trung sĩ
Thành Viên
Hiện nay, Báo Pháp luật Việt Nam cho biết, dư luận có nhiều ý kiến trái chiều trước các bộ sách của Nhà xuất bản (NXB) Giáo dục Việt Nam, trong đó có sách tiếng Việt lớp 1 bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống”- Bộ sách được cho là quá nhiều “sạn” nhưng vẫn chưa được Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) yêu cầu sửa chữa, biên soạn lại.

sach-tieng-viet-lop-1-nxb-gd.jpg

Nhiều nội dung trong bộ sách được cho là chưa phù hợp.

Nhiều ngữ liệu phản cảm?

Khá nhiều trang trong bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống” “có vấn đề”, đơn cử, ở trang 115, bài “Cuộc thi tài năng trong rừng xanh” đã “nhồi” vào trí tưởng trượng non nớt của trẻ em một hình ảnh không có thật ngoài thiên nhiên: “Yểng nhoẻn miệng cười”.

Để minh họa cho “nụ cười duyên” của yểng, trang 117 còn yêu cầu học sinh viết chính tả câu văn với hình ảnh con yểng há to mỏ. Tra từ điển, có thể thấy “nhoẻn” là động từ, có nghĩa “cười hé miệng”. Nếu trẻ hiểu “nhoẻn miệng cười” là há to miệng (mỏ) và ghi nhớ mãi thì không hiểu như thế nào?

Bài đọc “Cuộc thi tài năng rừng xanh” nói trên cũng dày đặc những từ ngữ khó như: “ca khúc ngoao ngoao của mèo rừng”, “chim công khiến khán giả say mê, chuếnh choáng”, “voọc xám với tiết mục đu cây điêu luyện” trầm trồ.... Ngoài ra, bài đọc còn được cho là sử dụng quá nhiều từ láy, thậm chí cả từ quá khó, chưa cần dạy cho trẻ ở lứa tuổi này (như “niêm yết”…).

Bài tập 9 chiếm gần hết trang 113, cung cấp 10 thông tin, yêu cầu học sinh cho biết “thông tin nào phù hợp với hổ, thông tin nào phù hợp với mèo”. Như bài tập của sách, chắc học sinh phải trả lời: thông tin “sống trong rừng”, “hung dữ” phù hợp với hổ; còn thông tin “sống trong nhà”, “dễ thương, dễ gần” phù hợp với con mèo.

Nhưng chỉ sau đó 2 trang, ở bài “Cuộc thi tài năng rừng xanh”, sách đã mô tả “ca khúc ngoao ngoao của mèo rừng”. Đến đây, có lẽ cô giáo cũng không biết mình đã làm bài tập ở trang 113 đúng hay chưa nữa, bởi vì mèo cũng có loài sống trong rừng và chắc loài mèo đó không “dễ thương, dễ gần” chút nào.

h3_jyrr.jpg

Trang 147 cũng có 1 bài tập giải ô chữ gần kín cả trang, dài hơn 100 chữ, ngang với một bài tập đọc. Nhiều phụ huynh mệt nhoài theo con học cũng vì lý do này. Hay bài tập 2 (giải ô chữ) ở trang 167 còn có những câu bí hiểm hơn, ví dụ: “Ai ai cũng có / Chẳng nặng là bao? Bạn ơi đi đâu / Nhớ mang theo nhé (Là gì?)” Không biết cái mà “Ai ai cũng có, chẳng nặng là bao, đi đâu cũng mang theo” này là cái gì, gợi người ta suy diễn ra cái gì?

Câu đố này, không hề có hình ảnh, chi tiết để trẻ em nhận dạng và liên tưởng đến vật dụng hay ngoài vật dụng nên mang theo mình thường xuyên. Ngữ liệu này cũng thể hiện sự cẩu thả, tùy tiện và gây khó cho giáo viên khi thực hiện bài học trên lớp.

Mục giải câu đố, trang 79, tập 1 có ghi: “Con gì tên rõ là “cha”/Có chứa chữ số nhìn qua ngỡ rùa/Con gì quen vẻ già nua/ Bốn chân ngắn ngủn, thỏ thua chả ngờ”. Để hiểu được câu đố, theo logic này, trẻ em phải có sự liên tưởng con gì tên rõ là “cha”.

Ngay từ câu 1, đã thấy vô nghĩa và phản cảm: “Con (vật) gì” có tên gọi “cha” (bố)? Bắt trẻ 6-7 tuổi phải buộc hiểu “con gì tên rõ là cha” và dùng con vật liên tưởng đến người cha thì liệu sau này, trẻ có suy diễn, liên tưởng đến những con vật xấu xí khác, rồi nói đó là cha, mẹ mình?

Câu thứ hai tệ hơn nhiều: “Có chứa chữ số nhìn qua ngỡ rùa”. Câu này chẳng hề liên quan đến câu trên và “nửa toán nửa văn”. Toán thì có chạm đến “chứa chữ số”(?), còn văn thì lại là hình ảnh giả định “nhìn qua ngỡ rùa”. Hẳn học sinh hiểu được câu đố này phải có trường từ ngữ phong phú về loài rùa, ba ba.

Hai câu sau “Con gì quen vẻ già nua/ Bốn chân ngắn ngủn, thỏ thua chả ngờ”. Hai câu cuối thuyết minh giải nghĩa cho hai câu đầu nhưng việc bổ sung từ “già nua”, bật mí từ “ngắn ngủn”, kèm thêm từ “thỏ” được cho là khiên cưỡng và tắc tỵ vì có gợi mở kiểu này trẻ cũng không hiểu được. Trừ khi giáo viên “nói toạc” ra, “cha” ở đây không phải là người thân sinh, bố đẻ của các em, không phải là ba (má), mà là con ba ba, con rùa.

Những câu đố này được cho là tối nghĩa, nghèo nàn về hình tượng, cẩu thả trong biên soạn. Với những ngữ liệu này, không hiểu vì sao, đến giờ, bộ sách vẫn chưa được Bộ GD&ĐT yêu cầu sửa?

Bộ sách chưa kết nối với cuộc sống?

Vừa qua, trên báo chí, trên các trang mạng của giáo viên dạy sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” đã xuất hiện nhiều tiếng than của giáo viên vì sách nặng, khó dạy, ngữ liệu nhiều “sạn”, khó hiểu; nếu cho họ quyền tự điều chỉnh thời gian để dạy, họ cũng chịu, vì cấu trúc của sách rất nặng, không sửa được.

Hãy nghe những câu giáo viên than thở như: “Như chúng tôi đây đã vào tuần 9 của năm học bước sang dạy vần có ngày hẳn 4 vần mà giờ vẫn đang rèn học sinh thuộc bảng chữ cái thử hỏi đòi chất lượng ở đâu?”; “Không chỉ bộ Tiếng Việt đâu ạ, sách toán của bộ “Kết nối” cũng rất khó.

Sách chỉ chú trọng chữ và hình ảnh nhiều. Khi vận dụng làm toán bằng con số, bé không làm được”; “Bộ Kết nối: Những hạt sạn, thiếu sự trong sáng, chưa khai thác kho tàng văn hóa Việt Nam”; “Câu văn thì ngang mà khó đọc hơn cả các lớp trên”; “Dạy tiết nào cũng khản cả tiếng. Đi làm mà cảm thấy kiệt sức”….

Xem ra, bộ sách này chưa “kết nối” với cuộc sống như tiêu chí đặt ra mà còn đưa thầy trò vào mê cung tắc tỵ, phản cảm. Đại biểu QH Nguyễn Thị Kim Thúy (Đoàn Đà Nẵng) - Ủy viên Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho biết, bà đã gửi chất vấn Bộ trưởng Bộ GD-ĐT về việc, bên cạnh yêu cầu SGK Tiếng Việt 1 Cánh Diều chỉnh sửa, Bộ GD- ĐT đã có văn bản yêu cầu rà soát, điều chỉnh những nội dung chưa phù hợp trong 4 Bộ SGK lớp 1 còn lại hay chưa, vì theo bà tìm hiểu thì cả 4 bộ còn lại đều được dư luận, báo chí chỉ ra nhiều lỗi, trong đó có lỗi rất nghiêm trọng về Luật Sở hữu trí tuệ.

Thiết nghĩ, bộ sách cần phải được sửa chữa, biên soạn lại, càng sớm càng tốt, để con em chúng ta có được sự kết nối với cuộc sống theo đúng tiêu chí của bộ sách.
 
Top